Phát Xít Nhật Bản Xâm Chiếm Việt Nam ', Phát Xít Nhật Xâm Lược Nước Ta Vào Năm Nào

-

Việt Nam trong chiến tranh thế giới thứ hai là một giai đoạn lịch sử ngắn tại Việt Nam kể từ khi thế chiến thứ hai bùng nổ cho đến khi cuộc chiến này kết thúc. Vậy phát xít Nhật xâm lược nước ta vào năm nào, bài viết dưới đây sẽ giải đáp thắc mắc cho bạn.

Bạn đang xem: Nhật bản xâm chiếm việt nam

Phát xít Nhật xâm lược nước ta vào năm nào?

Phát xít Nhật chiếm đóng Đông Dương

Phápchiếm
Đà Nẵngnăm 1858. Các phong trào đòi độc lập đã tăng lên ở Việt Nam, đặc biệt trong và sau
Phe Trụclà Nhật Bản xâm lược Việt Nam nhằm xây dựng căn cứ quân sự để chống lại phe
Đồng Minhở
Đông Nam Á.

Sau khi Việt Nam bị Nhật Bản chiếm đóng, tháng 3 1945, Nhật Bản lật đổ chính quyền Pháp ở Việt Nam, cầm tù các viên chức cấp cao Pháp và trả lại Việt Nam “nền độc lập” dưới “sự bảo hộ” của Nhật, với
Bảo Đạilà
Quốc trưởng. Sự đầu hàng của Nhật vài tháng sau là một sự kiện
Hồ Chí Minh(lúc đó
Nguyễn Ái Quốc) đã đợi chờ từ khi Pháp bại trận năm 1940. Ngay khi xung đột chấm dứt, Việt Namtuyên bố độc lập. Tuy nhiên không lâu sau, mộtcuộc chiến giành độc lậpnổ ra giữa
Việt Minhvà Pháp sẽ kéo dài đến năm 1954.

*
Phát xít Nhật chiếm đóng Việt Nam

Sau đó Nhật, một đồng minh Phát Xít với Đức và Ý, đã yêu cầu chính quyền Vichy Pháp phong toả các đường tiếp tế tại Đông Dương cho quân đội Tưởng Giới Thạch, nhưng chính quyền Pháp không đồng ý. Ngày 5 tháng 9 năm 1940, quân đội Nhật dưới quyền chỉ huy của Tướng Takuma Nishimura bắt đầu tiến quân vô Đông Dương, với sự hổ trở bởi hải quân và không quân từ các hàng không mẫu hạm và đảo Hải Nam.

Với quân đội quá yếu, chính quyền Vichy Pháp phải đồng ý và buộc phải ký hiệp ước chấp nhận cho quân đội Nhật đóng quân tại Đông Dương và cho phép Nhật dùng Đông Dương để đưa quân và tiếp tế cho cuộc chiến về phía Trung Hoa và Miến Điện. Hiệp ước chỉ cho 6.000 lính Nhật đóng quân tại Đông Dương và tối đa 25.000 lính Nhật tạm thời đóng quân trên đường di chuyển tới mặt trận ngoài Đông Dương.

Hiệp ước vừa ký xong thì Nhật bắt đầu đưa Sư Đoàn 5 Bộ Binh dưới quyền chỉ huy của Trung Tướng Akihito Nakamura tiến vô Lạng Sơn trái với hiệp ước đã ký. Trận đánh Lạng Sơn giữa lính người Đông Dương dưới quyền chỉ huy Pháp và quân đội Nhật bắt đầu. Ngày 25 tháng 9, Lạng Sơn thất thủ mở đường cho quân Nhật tiến vô Hà Nội. Sáng 24 tháng 9, hải quân và không quân Nhật bắt đầu tấn công các vị trí phòng thủ của Pháp chung quanh Hải Phòng. Ngày 26 tháng 9, bộ binh Nhật đổ bộ rồi chiếm Hải Phòng và cuối ngày, Hà Nội cũng bị thất thủ. Kể từ đó, Đông Dương bị Nhật chiếm đóng cho tới khi Thế Chiến Thứ Hai kết thúc.

Phát xít Nhật trước nguy cơ buộc phải đầu hàng

Chiến tranh Thái Bình Dương nổ ra lúc 7 giờ 55 phút sáng ngày 7 tháng 12 năm 1941 (giờ Hawaii), khi Nhật không tuyên chiến mà bất ngờ tập kích Trân Châu Cảng (Pearl Harbor) trên đảo Hawaii, đánh chìm và làm hỏng 19 tàu chiến và diệt 2.300 lính Mỹ.

*
Phát Xít Nhật xâm lược nước ta vào năm nào?

Cú đánh trộm này gây thiệt hại chưa từng thấy cho nước Mỹ, Tổng thống Mỹ Franklin D. Roosevelt gọi ngày 7 tháng 12 ấy là “một ngày ô nhục”. Hành động vô liêm sỉ của chính phủ Nhật đã kích động lòng căm phẫn sâu sắc của toàn dân Mỹ. Quốc hội Mỹ nhanh chóng nhất trí từ bỏ lập trường biệt lập không can dự vào công việc của các nước khác, chuyển sang chủ trương kiên quyết chống phát xít Nhật.

Ngày 8 tháng 12, Tổng thống Mỹ Franklin Roosevelt ra trước cuộc họp Quốc hội tuyên bố Mỹ tuyên chiến với Nhật. Ba ngày sau ông tuyên chiến với Đức và Ý.

Mỹ trở thành nước đồng thời chiến đấu trên cả hai mặt trận châu Âu và châu Á. Nước Nhật dại dột “đánh thức gã khổng lồ Mỹ” – như lời ta thán của chính đại tướng Tổng chỉ huy Hạm đội Liên hiệp Nhật Yamamoto, người vạch chiến dịch tập kích Trân Châu Cảng. Viên tướng này từng học ở Mỹ nên biết rất rõ tiềm lực kinh tế và quân sự cũng như khoa học kỹ thuật của Mỹ, ông tin rằng Nhật không thể nào thắng nổi Mỹ. Phát biểu này khiến ông bị giới quân phiệt Nhật gọi là “Nhật gian” và đòi xử tử.

Do giữ quan điểm mơ hồ về quân phiệt Nhật nên trong một thời gian dài Mỹ thiếu chuẩn bị chiến đấu với Nhật, năm 1941 trên vùng Thái Bình Dương Mỹ chỉ có 3 tàu sân bay, 9 thiết giáp hạm, 22 tàu tuần dương và 54 tàu khu trục; trong lúc đó phía Nhật tương ứng có 10, 10, 38 và 113 tàu, vì vậy quân đội Mỹ ban đầu phải rút lui chiến thuật.

Xem thêm: Bật Mí Các Cách Kiểm Tra Cước Viettel Trả Sau, Access Denied

Ngay từ tháng 5, Gore đã kiến nghị với Tổng thống Truman là chỉ cần Tuyên ngôn này đưa ra tiền đề Nhật có thể được phép giữ lại chế độ Thiên Hoàng, thì chắc chắn Nhật sẽ chấp nhận đầu hàng ngay. Thiên Hoàng là thống soái tối cao của quân đội Nhật; xưa nay hoàng tộc Thiên Hoàng được dân Nhật coi là dòng dõi thần thánh không thể bị tiêu diệt; Thiên Hoàng bị diệt nghĩa là nước Nhật bị diệt.

Thế nhưng hồi ấy dư luận Mỹ và đa số quan chức trong Chính phủ Mỹ đều đòi đưa Thiên Hoàng ra xét xử tội ác chiến tranh, phản đối giữ lại chế độ Thiên Hoàng. Stimson đành đề nghị Truman dùng hình thức phi chính thức để truyền đạt cho phía Nhật biết ý định nói trên của Mỹ.

Ngày 26 tháng 7,Tuyên ngôn Potsdamchính thức công bố. Máy bay Mỹ thả xuống khắp đất Nhật hàng triệu tờ truyền đơn in Tuyên ngôn này bằng tiếng Nhật.

Điều 13 của Tuyên ngôn viết: “Chính phủ Nhật phải tuyên bố toàn bộ quân đội Nhật lập tức đầu hàng vô điều kiện”, “Bất cứ sự lựa chọn nào khác đều chỉ có thể dẫn đến sự huỷ diệt nhanh chóng và toàn diện của nước Nhật”.

Giới thiệu Hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ
Công tác trưng bày
Tin tức Trưng bày Trưng bày chuyên đề
Nghiên cứu Khảo cổ họcẤn phẩm
Dự án BTLSQG Thông tin hữu ích Hỗ trợ

*

Các đơn vị quân đội Nhật vào Lạng Sơn, tháng 9-1940.

Phát xít Nhật thay Pháp chi phối Đông Dương

Sau khi vào Đông Dương, Nhật liên tục ép Pháp nhượng bộ, ký kết các hiệp ước có lợi cho Nhật trên tất cả các mặt kinh tế, quân sự, văn hóa tư tư tưởng, trên cơ sở đó từng bước chi phối Đông Dương.

Về chính trị: Sau khi chiếm được Đông Dương, phát xít Nhật thực hiện chính sách hai mặt. Một mặt câu kết với Pháp nhằm vơ vét của cải, áp bức nhân dân ta, mặt khác lại tăng cường xây dựng cơ sở xã hội cho mình. Cụ thể Nhật đã phục hồi các tổ chức thân Nhật ở Việt Nam nhưng bị Pháp đàn áp trong những năm 1940-1941 như Hội Phục Quốc, Cao Đài, Hòa Hảo… giúp đỡ các nhóm Đại Việt dân chính, Đại Việt quốc xã, Đảng Việt Nam ái quốc…với mục đích khi thời cơ đến sẽ dùng lực lượng này để lật đổ Pháp.

Nhật đảo chính Pháp, chấm dứt ách thống trị của Pháp trên toàn cõi Đông Dương

*

Bằng một hành động thống nhất trên toàn Đông Dương, trong đêm 9/3, quân Nhật đồng loạt nổ súng và căn bản nhanh chóng đè bẹp sự kháng cự của đối phương. Đến chiều ngày 10-3, quân Pháp đầu hàng, phát xít Nhật làm chủ các vùng đô thị lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Huế, Sài Gòn và nhiều tỉnh lỵ… Những đơn vị quân Pháp còn cố thủ ở Cà Mau, Biển Hồ (Campuchia), một số vùng ở Bắc Đông Dương cũng lần lượt bị thất thủ, chỉ còn một số tàn quân chạy qua biên giới Việt-Trung.

*

Toàn quyền Đông Dương Đờ Cu đón tướng Nhật sau ngày Nhật đảo chính Pháp

Với sự kiện này, lực lượng quân sự Pháp hoàn toàn tan rã, bộ máy thống trị của thực dân Pháp đầu hàng, bị cầm tù hoặc đang tâm làm tay sai cho phát xít Nhật. Trên thực tế toàn bộ Đông Dương đã trở thành thuộc địa của phát xít Nhật.

Thu Nhuần

1. Dương Trung Quốc, “Việt Nam những sự kiện lịch sử (1919-1945)”, nxb Giáo dục, 2001.

2. Đinh Xuân Lâm (chủ biên), “Đại cương lịch sử Việt Nam”, tập II, nxb Giáo dục, 2001.