Nguồn Gốc Và Hình Tướng Quỷ Dạ Xoa Là Gì, Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn Phẩm Giảng Ký
Bạn đang xem: Quỷ dạ xoa là gì
Dạ Xoa trong các ngôn ngữ có nhiều tên gọi khác nhau: Yaksha (Sanskrit), Yakkha (Pali), Hoa:Yecha, Nhật: Yasha, Tạng: Gnod-shyin, Khmer: Yăk (được gọi theo tiếng Việt là Chằn), Thái:Yak/ Nhak (1) . Trong kinh văn Hán ngữ, Yasha được phiên âm là Dược-xoa (dịch ý: chiến thắng bệnh tật, uy đức), Duyệt-xoa, Dã-xoa và được dịch: Khinh tiệp, Dũng kiện, Năng đạm, Quý nhân, Oai đức, Từ tế quỹ, Tiệp tật quỷ. Ý của từ Dạ Xoa là Quỷ Năng Đạm (Quỷ cám dỗ), Quỷ Tiệp Tật (Quỷ thoắt hiện thoắt ẩn), Khinh Tiệp (nhanh như chớp), Dũng Kiện (khỏe mạnh)(2) . Về giới tính, bên cạnh Dạ Xoa còn có Dạ Xoa nữ (Phạn: Yaksi hoặc Yakshini; Yakshini cũng gọi là Yaksini hay Yaksi và Yakkhini trong tiếng Pali).
1. Yaksha vốn là tên gọi chỉ một loại nhiên thần, thường là nhân từ, là kẻ trông coi kho tàng châu báu tự nhiên ẩn giấu trong đất hay rễ cây. Chúng thường xuất hiện trong các thần thoại Hindu giáo lẫn Kỳ-na giáo và Phật giáo.
Trong thần thoại Hindu, Kỳ-na (Jainism) và Phật giáo, yaksha/yakshini có tính cách hai mặt. Một mặt, yaksha là vị tiên xinh đẹp vô thưởng vô phạt, được nối kết với rừng, núi. Nhưng bên cạnh đó cũng tồn tại một kiểu yaksha nham hiểm, cay độc, đôi khi giống ma quỷ (bhuta) ở những nơi hoang vu vắng vẻ, thường rình rập để ăn tươi nuốt sống/ngấu nghiến những lữ khách tương tự như La Sát (raksasa).
Trong bài thơ Kalidasa Meghaduta, cho thấy yaksha là một nhân vật lãng mạn: yaksha mòn mỏi/khát khao yêu thương vì nỗi nhớ mong người yêu dấu. Ngược lại, trong đối thoại giáo khoa Hindu “Câu hỏi của yaksa” của Yaksaprasnah, yaksha là một thần bảo hộ cho một hồ nước, thách thức Yudhisthira. Khởi phát yaksha có thể là những vị thần bảo vệ rừng và làng mạc; sau đó, được quan niệm như các vị thần thống quản trần gian và của cải dưới đất.
Yakshini và Yaksha, cả hai đều là người hầu cận của Kubera, vị thần Tài cổ xưa của xứ Ấn Độ. Trong kinh Vệ Đà, Kubera (còn viết là Kuvera) là vị thống quản cả quỷ hoặc thần linh sống trong bóng tối, tức một loại Diêm vương và được gọi tên theo cha là Vaisravana. Về sau, Kubera được hiểu theo nghĩa khác: thần Tài/ thần của cải và là chủ tướng của chúng Dạ Xoa và Guhyaka (âm thần ẩn hình, canh giữ kho báu bí mật). Cung điện của Kubera là Alaka trên dãy Himalaya và khu vườn Chaitra-ratha ở Madrara, một trong các đỉnh của ngọn núi trung tâm vũ trụ Meru/ Tudi sơn. Theo sử thi Ramayana (và cả Mahabharata), Pulastya được sinh ra từ ý tưởng của thần Brahman. Vaisravana/ Kubera là con của Pulastya. Thế nhưng, Vaisravana rất gắn bó, dành trọn tình thương và tôn kính với ông nội. Điều đó đã khiến Pulastya rất đố kỵ. Brahman luôn khen ngợi Vaisravana và đã ban cho đứa cháu cưng đặc ân bất tử, cắt cử Vaisravana làm chúa tể tất cả các kho báu của cải quý giá trong thế gian và bổ nhiệm cho Vaisravana làm vua xứ Lanka (được đoán định là Tích Lan/ Sri Lanka). Giận dữ tột cùng, Pulastya tự phân thân mình sinh ra đứa con thứ hai là Vaisravas – một đứa em căm ghét anh mình không thua kém người cha. Để làm dịu lòng cha, Vaisravana đã dâng cho cha ba cô La Sát nữ Rakshasi xinh đẹp. Một cô sinh ra Ravana và Kumbhakarna; một cô khác sinh ra Vibhishana; và cô thứ ba sinh ra Rapa , Khara và Surpanakha. Những người con này của Pulastya cũng rất đố kỵ với sự giàu có của người anh Vaisravana. Do vậy, họ kiên trì thực hành việc khổ hạnh và nhận được đặc ân thần thánh của ông nội Brahman. Với sức mạnh có được từ đặc ân thần thánh này, họ chống lại Vaisravana. Ravana tấn công Vaisravana và trục xuất Vaisravana ra khỏi Lanka(3).
Trên đây là những nét chính yếu về dòng dõi của các Yaksha. Đối với các quốc gia “Ấn hóa” ở Đông Nam Á, tín niệm về Yaksha thậm nhập sâu sắc bắt nguồn từ sự lưu truyền của sử thi Ramayana. Sử thi này được coi là sáng tác văn học nền tảng, chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong văn hóa Sri Lanka , Miama, Lào, Cambốt, Thái Lan... Các dị bản Ramayana của từng quốc gia (Phra Lak - Phra Lam của Lào; Riêm Kê của Cambốt, Rama Kiên của Thái Lan...) không chỉ là các sáng tác văn học để kể/ đọc mà còn từ đó tạo ra các sản phẩm sân khấu, các hình thức diễn xướng dân gian và vô vàn các tác phẩm điêu khắc, trang trí, hội họa. Theo đó, các tín niệm và hình tướng Yaksha thâm nhập vào tâm thức cộng đồng một cách rất sâu đậm(4).
2. Trong thần thoại Hindu, Yaksha là loại sinh linh siêu nhiên, thuộc hạ của thần Tài Kubera. Tuy nhiên, một số nguồn dữ liệu khác không thừa nhận nguồn gốc này. Chẳng hạn, loại Dạ Xoa nữ/Yakshi được xác định là thuộc hạ của nữ thần Durga - vợ của thần Shiva; hoặc truy nguyên về xa xôi hơn: Yaksha là con của Kasyapa và các bà vợ, vốn là con gái của Daksha - một hiền triết thời Vệ Đà - được tôn là Praja-pati/cha của nhân loại(5). Chúng không có thuộc tính đặc biệt nào, nhưng nói chung chúng được coi là vô hại, và vì vậy được gọi là Punya-janas, tức “người tốt”; song có lúc chúng xuất hiện như một loại yêu tinh với hình tướng dữ dằn, đáng sợ.
Trong nghệ thuật Ấn Độ, Yaksha được thể hiện có khi như những chiến binh rụt rè, có lúc lại bệ vệ, kiên cường/to khỏe nhưng thấp lùn.
Ở Nhật Bản, nói chung, những vị bán thần này được biểu thị như là những nam tử hảo hán cường tráng to khỏe, chắc nịch, thường chỉ mặc một mảnh vải khoác sơ sài. Họ thường được miêu tả với râu ria rậm rạp dựng lên tua tủa, mắt lồi như ốc nhồi. Đôi khi họ được trình bày mang mũ miện và vòng hoa tai, nhưng nói chung họ không có tùy khí đặc biệt nào. Hình tướng Yaksha Ấn Độ và Nhật Bản về tổng thể có sự tương đồng. Yaksha tuồng như đã sáp nhập với những linh vật thần thoại của văn hóa dân gian bản địa Nhật Bản(6).
Ở Đông Nam Á, đặc biệt là ở Java, Yaksha đảm nhận vai trò những thần canh giữ đền chùa. Yaksha (Thái Lan: Yak) là một yếu tố quan trọng trong mỹ thuật và kiến trúc đền chùa Thái Lan. Yaksha phổ biến như là người gác cổng trong khắp điện thờ Phật ít nhất là từ thế kỷ thứ 14. Những tượng gốm Yaksha được sản xuất ở Thái Lan trong suốt thời kỳ Sukhothai và Ayutthaya, giữa thế kỷ XIV và XVI, tại dăm ba lò nung phức hợp tọa lạc ở Bắc Thái Lan. Yaksha được mô tả phần lớn chú trọng vào đặc điểm khuôn mặt dữ dằn với cặp mắt tròn lồi/phồng lên và răng nanh lòi ra ngoài, cũng như nước da xanh lục. Tương tự, chùa tháp Khmer, Yaksha (được gọi là Yăk) cũng là những thần canh giữ. Thường được tạo hình từng cặp đôi, bố trí hai bên cửa, cổng và bậc cấp. Ngoài khuôn mặt “chằn” dữ dằn với cặp nanh ngoặt ra hai bên mép, hình tướng cơ bản được tạo tác dưới dạng võ tướng: trang phục bó chẽn vào thân, vũ khí là chiếc chày vồ, dựng đứng giữa hai chân, hai tay khuỳnh ngang rốn nắm lấy cán chày.
Nói chung, hình tướng của Yaksha trong mỹ thuật chùa tháp Phật giáo Nam truyền có phần trang nghiêm hơn so với các Yaksha trên sân khấu cổ điển của các quốc gia Đông Nam Á này. Đặc điểm khác biệt là ở bộ mặt nạ sân khấu, tùy theo thứ bậc của từng vai diễn, Yaksha có thể có từ 5, 3, 2 hay một tầng đầu, có một hay 4 mặt khác nhau. Số lượng tầng đầu và mặt biểu thị tài phép của từng loại Yaksha. Điểm khác biệt chính ở đây là Yaksha canh gác chùa tháp là loại Dạ Xoa đã quay đầu hướng thiện, chí nguyện hộ pháp. Còn các Yaksha trên sân khấu (chủ yếu là các trích đoạn từ những dị bản của sử thi Ramayana) là loại chằn ác, thuộc phe phản diện, đối tượng khuất phục của phe chính diện - đại biểu cho chính nghĩa và cái thiện.
Đạo Kỳ-na chủ yếu thờ tượng thần Arihant và Tirthankara, kẻ chế ngự những đam mê bên trong và đạt được địa vị thần thánh. Một vài tín đồ đạo này cũng tin rằng Yaksha và Yakshini chăm lo sự hạnh phúc và sức khỏe cho Tirthankara. Thông thường, chúng được tìm thấy đâu đó bên cạnh tượng thần, gồm một cặp tượng Yaksha và Yakshini. Đó là những vị thần bảo vệ/canh gác. Yaksha thông thường đứng ở bên phải tượng thần Jina và Yakshini ở bên trái. Ở những thời kỳ sớm hơn, Yaksha và Yakshini được xem là những tín đồ sùng đạo của tôn giáo này và có sức mạnh/năng lực siêu nhiên. Yaksha cũng lang thang trong suốt chu kỳ sinh tử giống như người trần tục, nhưng chúng có sức mạnh siêu nhiên. Do đó, những Yaksha và Yakshini này cũng bắt đầu được thờ cúng .
Phái Som của đạo Kỳ-na chú trọng vào hiệu quả tức thì khi cúng tế nên đặt Yaksha và Yaksani trong điện thờ của họ. Một vài Yaksha được biết sẽ ban cho thịnh vượng và giàu có cho người sùng tín họ. Do đó, các Yaksha này trở nên rất phổ biến: những tượng Yaksha được đặt trong các điện thờ đạo Kỳ-na và thờ cúng thường xuyên. Những tín đồ đạo Kỳ-na cũng dâng cúng họ để cầu xin các Yaksha ban ân huệ tốt đẹp cho đứa trẻ, sự giàu có hay sự giải thoát khỏi sợ hãi, đau ốm, bệnh tật(7).
Khác với hình tướng dữ dằn của Yaksha, Yakshi được mô tả với đặc trưng của một người phụ nữ trẻ khỏa thân có khuôn mặt tròn, mỉm cười, hông rộng, eo thon, vai rộng và ngực tròn đầy. Yakshi thường được miêu tả cường điệu hóa - theo trường phái nhục cảm - để tăng vẻ uyển chuyển, quyến rũ của người phụ nữ nhằm liên kết họ với sự sung mãn và phì nhiêu. Trong Uddamareshvara Tantra, 36 Yakshi được miêu tả bao gồm cả những câu thần chú và những quy định lễ nghi. Tương tự danh sách Yaksha, Yakshi cũng được nêu ra trong Tantraraja Tantra. Cuốn sách này cũng nói rằng những sinh vật này là những kẻ ban tặng mọi thứ mà thế nhân mong cầu.
Ba di tích nổi tiếng của Phật giáo Ấn Độ, Bharhut, Sanchi và Mathura , đã tạo tác một số lượng lớn những mẫu trang trí Yakshi. Chúng phổ biến trên hầu hết những cột trụ rào chắn của tháp. Yakshi thường được thể hiện với cánh tay vươn lên chạm vào một nhánh cây và thân hình uốn éo uyển chuyển (Phạn: tribhanga có nghĩa là 3 điểm uốn cong); vì vậy, một vài tác giả cho rằng người phụ nữ trẻ đứng tại gốc cây này là dựa vào vị thần cây cổ đại(8).
Cây ashoka thường được kết nối với sinh vật thần thoại Yakshi. Đây cũng là một trong những yếu tố thường lặp lại trong mỹ thuật Ấn Độ. Loại tượng này thường thấy ở cổng nhiều điện thờ Phật giáo và Hindu: Yakshi đứng trên thân cây/vòi voi vói tay nắm nhánh cây hoa ashoka nở cách điệu hay ít phổ biến hơn lá cây với hoa và quả. Như một yếu tố mỹ thuật, cây và Yakshi là những chủ thể hướng tới sự cách điệu hóa triệt để.
Một số tác giả cho rằng người phụ nữ trẻ đứng tại gốc cây là xuất phát từ biểu tượng cây cổ thụ xum xuê của tiểu lục địa Ấn Độ. Yakshi là yếu tố trang trí quan trọng ở các công trình kiến trúc Phật giáo buổi đầu và chúng được tìm thấy ở các di chỉ khảo cổ học Phật giáo cổ xưa. Yakshi trở thành Salabhanjika (thiếu nữ/trinh nữ cây chai); trải qua nhiều thế kỷ, đây là yếu tố trang trí chuẩn mực của điêu khắc/tượng và kiến trúc điện thờ Ấn Độ.
Xem thêm: Những bài thơ của lý bạch - top những bài thơ lý bạch hay nhất
Cây chai (shorea robusta) thường bị nhầm với cây ashoka (saraca indica) trong văn học cổ của tiểu lục địa Ấn Độ. Kiểu thức Salabhanjika cũng được xác định là hình mẫu của tư thế hoàng hậu Maya khi bà sinh Thái tử Siddhārtha dưới cây asoka trong vườn ở Lumbini. Hoàng hậu vói tay nắm lấy cành cây vô ưu asoka và Thái tử sinh ra từ hông...(9) (10).
Tuy được gắn với tín niệm phồn thực, biểu thị sự phong nhiêu của cây trồng, song ở Nam Ấn Độ, Yakshi không được xem là sinh vật nhân từ. Chúng được cho là kẻ rình rập những người đàn ông, quyến rũ họ bằng vẻ đẹp của chúng để uống máu họ. Như vậy, tính chất hai mặt của loại sinh linh này luôn được bảo lưu trong tâm thức văn hóa-tín ngưỡng của người Ấn. Điều đó, tuồng như cũng xảy ra tương tự trong kinh văn Phật giáo.
3. Trong tín niệm Phật giáo, Dạ Xoa/Yaksha là loài quỷ ở trên mặt đất hoặc trong hư không, dùng oai thế não hại người, hoặc dùng oai thế giữ gìn Chánh pháp; là một trong 8 bộ chúng. Về chủng loại, loài chúng sanh Dạ Xoa được nêu ra gồm 3 thứ: 1/ Địa hành Dạ Xoa: có phước báu hưởng thụ âm nhạc, thức uống ăn và các sự vui sướng khác; 2/ Hư không Dạ Xoa: có sức mạnh và đi nhanh như gió; 3/ Cung điện phi hành Dạ Xoa: có được đầy đủ tiện nghi và hưởng được sự sung sướng (theo Dạ Xoa luận Đại trí độ, 12)(11).
Như vậy, tính cách hai mặt cố hữu của Dạ Xoa được bảo lưu trong tín niệm Phật giáo và biểu hiện cụ thể trong kinh văn có những tình tiết đặc biệt đa dạng.
a) Ở đây đó trong kinh văn Phật giáo, chúng ta thấy việc bảo lưu tín niệm về sự thống quản Dạ Xoa của Tỳ-sa-môn Thiên Vương/Vaisravana. Theo kinh Đại hội, trong Trường A-hàm 12 (luận Đại tỳ-bà-sa 133, luận Thuận chánh lý 31...): Dạ Xoa chịu sự thống lãnh của Tỳ-sa-môn Thiên vương (Vaisravana) và bảo vệ chư thiên các cõi trời như Đao Lợi,... hưởng được các sự vui sướng và có oai thế. Theo Đại nhật kinh sớ 5 ghi: trong Kim cang bộ ngoài Mạn-đồ-la Thai Tạng giới, ở cửa Bắc thờ trời Tỳ-sa-môn, hai bên vị trời này có vẽ 8 vị đại tướng Dạ Xoa: Ma-ni Bạt-đà-la, Bố-lỗ-na-bạt-đà-la, Bán-chi-ca, Sa-đa-kỳ-lý, Hê-ma-phược-đa, Tỳ-sái-ca, A-tra-phược-ca và Bán-già-la (12) .
Tín niệm Dạ Xoa là tùy tướng/thuộc hạ của Tỳ-sa-môn Thiên Vương - vị thần Hộ quốc và là thần Tài Lộc - xuất hiện ở xứ ta thông qua truyền thuyết Thánh Gióng/Phù Đổng Thiên Vương với nhiều tình tiết “lịch sử hóa” đã làm khuất lấp đi tín niệm nguyên bản. Theo ghi chép trong Việt điện u linh, vị Thiên vương này được/bị thờ làm thần Thổ Địa chùa Kiến Sơ; và sau đó, được Lý Thái Tổ sai thợ đắp tượng thần và lại “sai đắp 8 pho tượng đứng hầu”(13). Đây chính là 8 đại tướng Dạ Xoa, bộ hạ lưu xuất của Vaisravana đã nói trên(14). Nói cách khác, đây là chứng tích về sự có mặt của tín niệm Dạ Xoa – thuộc hạ của Tỳ-sa-môn Thiên Vương ở xứ ta vào trước thời nhà Lý.
Trong kinh Dược Sư Như Lai bổn nguyện công đức, chúng ta tuồng như nhận ra dị bản motif Tỳ-sa-môn Thiên Vương và tùy tướng Dạ Xoa: 12 vị Dạ Xoa thần tướng thệ nguyện ủng hộ những người trì kinh Dược sư. Mười hai vị ấy có bạch Phật rằng như có ai bệnh thì nên tụng kinh Dược sư, kế lấy sợi tơ ngũ sắc mà kết danh hiệu 12 vị ấy vào đàn, khi lành bệnh thì lấy ra. Mười hai vị Dạ Xoa ấy là: 1/ Cung-tỳ-la đại tướng, 2/ Phạt-chiết-la đại tướng, 3/ Mê-xí-la đại tướng, 4/ An-để-la đại tướng, 5/ Át-nễ-la đại tướng, 6/ San-để-la đại tướng, 7/ Nhơn-đạt-la đại tướng, 8/ Ba-di-la đại tướng, 9/ Ma-hổ-la đại tướng, 10/ Chơn-đạt-la đại tướng, 11/ Chiêu-đổ-la đại tướng, 12/ Tỳ-yết-la đại tướng.(15)
b) Một trong sự tích bản sinh của Phật giáo đề cập đến Dạ Xoa là truyện có tựa đề là Cù Lâu vương nghe kệ cho vợ, rằng: Cù Lâu vương chí nguyện cầu pháp. Tỳ-sa-môn Thiên Vương bèn hóa thành Dạ Xoa đến thử lòng nhà vua. Thiên Vương đặt điều kiện: ăn thịt vợ con của vua rồi mới thuyết pháp, nói kệ cho nghe. Cù Lâu vương đồng ý. Dạ xoa ăn thịt vợ con của vua xong, liền vì vua thuyết kệ cho vua nghe. Xong đâu đó, Tỳ-sa-môn làm phép: vợ và con vua được sống lại(16).
Trong câu chuyện trên, đằng sau nội dung khuyến đạo, khuyến tu là việc ăn thịt người của Dạ Xoa. Thuộc tính ác của Dạ Xoa cũng được xác định trong kinh Đại cát nghĩa thần chú 3: Các thứ quỷ Dạ Xoa, La Sát thường biến ra các hình tượng như sư tử, voi, cọp, nai, ngựa, trâu, lừa, lạc đà, dê... hoặc đầu to mà thân nhỏ, hoặc bụng lớn có một đầu mà hai mặt, ba mặt,... tay cầm dao, giáo, kiếm... tướng trạng đáng sợ, khiến người kinh hãi, có thể làm cho người trông thấy bị mất vía rồi hút lấy tinh khí(17).
Chính vì tính hung ác làm hại chúng sanh nên trong phẩm Phổ môn (kinh Diệu pháp liên hoa) có ghi việc xưng tụng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ-tát để ngăn “bọn quỷ Dạ Xoa, La Sát” hãm hại.
c) Nói chung, tính chất hai mặt của Dạ Xoa được bảo lưu trong tín lý Phật giáo nên trong từng bản kinh, Dạ Xoa được biểu hiện là thiện hay ác khác nhau. Một trong kiểu mẫu tiêu biểu, điển hình cho tính cách chủng loài là chuyện Dạ Xoa Alavaka trong kinh Tương ưng X.12, ghi lại cuộc đối thoại giữa Đức Phật và Alavaka:
“Một thời Thế Tôn trú ở Alavi, tại trú xứ của dạ xoa Alavaka. Rồi dạ xoa Alavaka nói với Thế Tôn: Này Sa-môn, hãy đi ra!
Lành thay, hiền giả, Thế Tôn nói và đi ra.
Này Sa-môn, hãy đi vào.
Lành thay, hiền giả, Thế Tôn nói và đi vào.
Lần thứ hai, ... Lần thứ ba, dạ xoa Alavaka nói với Thế Tôn: Này Sa-môn, hãy đi ra.
Trụ sở: P. 1702, Tòa nhà Comatce Tower, Số 61 Ngụy Như Kon Tum, P. Nhân Chính, Q. Thanh Xuân, Tp. Hà Nội.
Văn phòng TW Giáo hội PGVN: P216 Chùa Quán Sứ, 73 Quán Sứ, Hoàn Kiếm, Hà Nội
Văn phòng đại diện phía Nam: Văn phòng 2 TƯ Giáo hội PGVN, Thiền viện Quảng Đức, số 294 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Q3, TP. HCM

Kinh Phật
Phật giáo thường thức
Phật pháp và cuộc sống
Nghiên cứu
Giáo hội
Đức Phật
Sống an vui
Môi trường
Media
Xiển dương Đạo pháp Tin tức
Video




Bạn đang tìm kiếm để hiểu ý nghĩa của từ khóa dạ xoa. Ý nghĩa của từ dạ xoa theo Tự điển Phật học như sau:
dạ xoa có nghĩa là:
(夜叉) Phạm: yakwa, Pàli: yakkha. Một trong tám bộ chúng, thường được gọi chung với La sát (Phạm: ràkwasa). Cũng gọi Dược xoa, Duyệt xoa, Dã xoa. Hán dịch: Khinh tiệp, Dũng kiện, Năng đạm, Quí nhân, Uy đức, Từ tế quỉ, Tiệp tật quỉ. Nữ tính Dạ xoa gọi là Dạ xoa nữ (Phạm: yakwiịì, Pàli: yakkhinì). Chỉ cho loài quỉ ở trên mặt đất hoặc ở trong hư không, dùng uy thế não hại người, hoặc dùng uy thế giữ gìn chính pháp. Cứ theo kinh Đại hội trong Trường a hàm quyển 12, luận Đại tì bà sa quyển 33 và luận Thuận chính lí quyển 31 nói, thì Dạ xoa được đặt dưới quyền điều khiển của vua trời Tì sa môn, có bổn phận giữ gìn các cõi trời Đao lợi v.v... Loài quỉ này được thụ hưởng những sự vui sướng và có đầy đủ uy thế.Cứ theo luận Đại trí độ quyển 12 nói thì có 3 loại dạ xoa: 1. Địa hành dạ xoa: thường được sung sướng, thưởng thức âm nhạc, ăn uống... 2. Hư không dạ xoa: có đầy đủ đại lực, đi nhanh như gió. 3. Cung điện phi hành dạ xoa: có đầy đủ tiện nghi và mọi sự vui sướng. Chú Duy ma cật kinh cũng nêu ba loại dạ xoa: 1. Địa dạ xoa: đời quá khứ chỉ bố thí tiền của nên không bay được. 2. Hư không dạ xoa. 3. Thiên dạ xoa: nhờ đời trước bố thí xe, ngựa, nên có thể bay đi. Ngoài ra, phẩm Tì sa môn thiên vương trong kinh Đại phương đẳng đại tập quyển 52 nói: Vua trời Tì sa môn có 16 đại lực tướng quân Dạ xoa như: Vô bệnh, Cát tường v.v... và năm mươi tướng quân Dạ xoa như: Nhân đà la, Tô ma, Bà lâu na, Y xa na, A tra bạc câu v.v... Cứ theo phẩm tựa trong kinh Kim quang minh tối thắng vương quyển 1 chép, thì Vua trời Tì sa môn có 36000 chúng Dược xoa dưới quyền, như: Am bà, Trì am, Liên hoa quang tạng, Liên hoa mục, Tần mi, Hiện đại bố, Động địa, Thôn thực v.v... Cứ theo Đại nhật kinh sớ quyển 5 chép,thì trong Kim cương bộ ngoài của Thai tạng giới mạn đồ la, ở phía bắc đặt trời Tì sa môn, ở hai bên vị trời này vẽ tám đại tướng Dạ xoa: Ma ni bạt đà la, Bố rô na bạt đà la, Bán chỉ ca, Sa đa kì lí, Hê ma phạ đa, Tì sái ca, A tra phạ ca và Bán già la. Trong các kinh thường đề cập đến các thần Dạ xoa hộ trì chính pháp. Như kinh Dược sư như lai bản nguyện nói: 12 vị đại tướng Dạ xoa, như Cung tì la, Bạt chiết la v.v... thề nguyền che chở giữ gìn những người trì tụng kinh Dược sư như lai bản nguyện. Còn kinh Đà la ni tập quyển 3 thì nói: 16 vị đại tướng Dược xoa, như Đạt lí để la sát tra v.v... (tức là 16 vị thiện thần Bát nhã) thì phát nguyện hộ vệ những người tụng niệm Bát nhã ba la mật. Luận Đại tì bà sa quyển 180 nói: khi hai nước giao chiến thì Dược xoa hộ quốc ra đánh trước. Kinh Khổng tước vương chú thì nói: 197 Dạ xoa như Câu câu tôn đà v.v... ở các nước để hàng phục oán địch. Tuy nhiên, trong các kinh điển cũng còn nói đến các loài Dạ xoa làm hại chúng sanh Như kinh Đại cát nghĩa thần chú quyển 3 nói: các Dạ xoa, quỉ La sát v.v... thường biến làm hình sư tử, voi, hổ (cọp), nai, ngựa, trâu, lừa, lạc đà, dê v.v... hoặc đầu to mình nhỏ, hoặc bụng đỏ với một đầu hai mặt v.v... tay cầm dao, gươm, dáo, mác v.v... hình tướng dữ tợn, làm ai cũng sợ, người trông thấy kinh quá đến ngất xỉu, rồi Dạ xoa tiến đến hút uống tinh khí của họ. Kinh Niết bàn (bản Nam) quyển 15 và kinh Quán Phật tam muội hải quyển 2 cũng nói đến loài Dạ xoa có thân hình đáng sợ, đó là loài quỉ hung ác thường uống máu ăn thịt và hút tinh khí của người. Tiếng Phạm của Dạ xoa là yakwa, từ gốcyakw mà ra, có các nghĩa: tôn kính, tế tự, táo bạo v.v... là loài nửa người nửa thần. Cho nên trong Chú Duy ma cật kinh quyển 1, Dạ xoa được dịch là người quí. Tuệ lâm âm nghĩa quyển 23 gọi Dạ xoa là Từ tế quỉ và bảo người dân Ấn độ thường thờ cúng Dạ xoa để cầu phúc. Trong thần thoại Ấn độ, Dạ xoa là một loại thần linh nửa thần. Có thuyết nói cha của Dạ xoa là Bổ la sa để da, hoặc Ca diếp ba, hoặc Bổ la ha (Phạm: pulaha); hoặc có thuyết cho Dạ xoa là từ trong chân của Phạm thiên sinh ra. Mẹ của Dạ xoa là người theo hầu thần tài Câu tì la, hoặc theo hầu thần Tì thấp nô. Trong Mật giáo, theo Đại nhật kinh sớ quyển 1, thì lực sĩ Mật tích là chúa Dạ xoa, gọi là Kim cương thủ hoặc Chấp kim cương
Trên đây là ý nghĩa của từ dạ xoa trong hệ thống Tự điển Phật học online do Cổng Thông tin Phật giáo Việt Nam cung cấp. Các từ khóa khác về Phật học trên hệ thống sẽ được tiếp tục cập nhật.
Cảm ơn bạn đã truy cập Tự điển Phật học online trên trang nhà.
Bạn cũng có thể tìm hiểu thêm các từ khóa Phật học khác có cùng ký tự tương ứng trên Tự điển Phật học online:
dã dạ dã dã dạ da bà da bà lô cát đế dạ bán chính minh thiên hiểu bất lộ dạ bán chính minh thiên hiểu bất lộ dã bàn tăngHỖ TRỢ CHÚNG TÔI
Tuân theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi cung cấp tài liệu giáo dục Phật giáo philợi nhuận. Khả năng duy trì và mở rộng dự án của chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vàosự hỗ trợ của bạn. Nếu thấy tài liệu của chúng tôi hữu ích, hãy cân nhắc quyên gópmột lần hoặc hàng tháng.