Những Bài Thơ Của Lý Bạch - Top Những Bài Thơ Lý Bạch Hay Nhất
Bạn đang xem: Những bài thơ của lý bạch
Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác văn chương của nhà thơ Lý Bạch
Những kiệt tác đi cùng năm tháng, làm nên tên tuổi của Lý Bạch
Nhắc đến thơ ca thời Đường, chúng ta không thể bỏ qua cái tên Lý Bạch - một nhà thơ theo chủ nghĩa lãng mạn kiệt xuất nhất Trung Hoa lúc bấy giờ. Thơ của ông ý cảnh kỳ lạ, chữ nghĩa phong phú, ào ạt như Trường Giang đại hải và giá trị nghệ thuật cũng đạt đến mức độ trước nay chưa từng có, giúp tên tuổi của ông lưu danh thiên cổ.
1. "Thi Tiên" Lý Bạch là ai?
Nhà thơ Lý Bạch có dòng dõi quan sang bởi ông là cháu chín đời của Tây Lương Vũ Chiêu vương Lý Cảo nước Tây Lương (thời Ngũ Hồ thập lục quốc), là hậu duệ của tướng quân Lý Quảng (nhà Hán). Tuy nhiên, có sách lại ghi ông là hậu duệ của Ẩn Thái tử Lý Kiến Thành?
Lý Bạch được sinh ra vào năm Trường An nguyên niên (nhà Đường gặp biến cố do sự thống trị của Võ Tắc Thiên) dưới sự gặp gỡ tình cờ và kết duyên giữa một người đàn ông họ Lý trốn đến Tây Vực cùng người phụ nữ Tây Vực (Man bà). Khi 5 tuổi, ông theo gia đình đến định cư tại huyện Xương Long, Miên Châu (Tứ Xuyên). Trước đó, ông sinh sống ở Lũng Tây, Cam Túc.
Có thể nói, cả cuộc đời của Lý Bạch luôn khao khát cống hiến, giúp đỡ nhân dân song mong muốn nhỏ bé đó của ông không bao giờ được toại nguyện. Ông là người có chí hướng, thích khám phá thế giới. Từ khi còn trẻ, ông đã rời xa gia đình để đi du ngoạn, tìm đường gầy dựng công danh sự nghiệp. Ông được người đời tán dương là một thiên tài thơ ca xuất chúng của Trung Hoa.
Lý Bạch và bạn của ông - Đỗ Phủ trở thành hai tượng đài vững chắc của thơ ca thời Đường nói chung và văn học Trung Hoa nói riêng. Với văn phong phóng khoáng, hào hùng và lãng mạn, ông được mọi người ca tụng là Thi Tiên (詩仙), Thi Hiệp (詩俠). Đặc biệt, ông có tài vừa uống rượu vừa làm thơ nên giới thi nhân gọi là Tửu Tiên (酒仙), Trích Tiên Nhân (謫仙人) hay Thiên Thượng Trích Tiên (天上謫仙).
2. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác văn chương của nhà thơ Lý Bạch
“Thi Tiên” Lý Bạch là một trong những nhà thơ tạo nên bước ngoặt to lớn giúp thơ ca thời nhà Đường thêm hưng thịnh, phát triển. Vì thế, cuộc đời và sự nghiệp sáng tác văn chương của ông được người đời quan tâm khá nhiều.
2.1 Cuộc đời của “Thanh Liên cư sĩ” - Lý Bạch thời nhà Đường
Cuộc đời của Lý Bạch đã đi vào truyền thuyết về một nhân tài thơ ca hiếm có và tinh thần trượng nghĩa. Ngoài những cái tên do hậu bối suy tôn, ông còn có một số bút hiệu khác như Thanh Liên cư sĩ, Thái Bạch, Tràng Canh. Mỗi một bút hiệu đều gắn liền với tài năng xuất chúng, sự cống hiến vĩ đại của ông cho nền thơ ca nước nhà.
Lý Bạch sống trong một gia đình khá giả, nên từ nhỏ ông không cần phải lo nghĩ việc cơm áo gạo tiền và được đi chu du khắp nơi với cha. Ông được mẹ dạy chữ Tây Vực, cha dạy Kinh Thi, Kinh Thư. Chính nhờ có sự dạy dỗ của đấng song thân, Lý Bạch đã bộc lộ rõ khả năng thiên phú trong việc sáng tác thơ văn của mình.
Cuộc đời của Lý Bạch đã đi vào truyền thuyết về một nhân tài thơ ca hiếm có và tinh thần trượng nghĩaLên 10 tuổi, cả nhà Lý Bạch chuyển về sinh sống tại huyện Chương Minh, Tứ Xuyên. Ở đây, ông có cơ duyên được học kiếm thuật. Sau một thời gian dài, tài múa kiếm và làm thơ của ông đã trở nên điêu luyện, sành sỏi.
Năm 15 tuổi, ông đã viết một bài phú ngạo nổi tiếng gửi cho Hàn Kinh Châu tên Tư Mã Tương Như, được người đương thời đánh giá rất cao. Một năm sau đó, tên tuổi của ông đã vang danh khắp vùng Tứ Xuyên. Tuy nhiên, cuộc sống quá nhàm chán nên ông quyết định học đạo, sống cuộc đời ẩn sĩ trên núi Đái Thiên Sơn.
Lý Bạch hạ sơn khi làm ẩn sĩ được 2 năm, ông bắt đầu làm hiệp sĩ, ngao du khắp các danh lam thắng cảnh ở Tràng An, Hà Bắc, Giang Tây,... Năm 20 tuổi, ông đi khắp nước Thục rồi quay về với gia đình ở Tứ Xuyên.
Năm 723, ông tiếp tục lên đường viễn du, hầu hết các cảnh đẹp ở Trung Hoa như sông Tương, hồ Động Đình, Kim Lăng, Giang Hạ, Dương Châu,... đều được Lý Bạch ghé qua. Năm 726, ông kết duyên cùng cháu gái của Hứa tương công. Thời gian này, tài năng thơ của ông bắt đầu nở rộ và không lâu sau, tiếng tăm đã vang đến triều đình.
Năm 735, nhà thơ có dịp gặp Quách Tử Nghi (một danh tướng thời Đường) tại Thái Nguyên. Trên đường quay về Nhiệm Thành thì ông gặp được 5 ẩn sĩ đường thời, họ rủ ông lên núi Tồ Lai thưởng ngoạn, say sưa ở Trúc Khê. Về sau người ta gọi là “Trúc Khê lục dật”.
Năm 741, danh tiếng của “Thi Tiên” - Lý Bạch vang danh khắp thiên hạ. Năm 742, ông có cuộc gặp gỡ với đạo sĩ Ngô Quân tại Thiểm Trung.Về Trường An có lại quen biết Hạ Tri Chương(thái tử tân khách) - bạn rượu thơ thân thiết của ông. Sau này, ông được mời vào điện Kim Loan thảo thư từ cho vua Đường Minh Hoàng, phong chức vị Hàn Lâm.
Năm 745, Lý Bạch rời cung, đi du lãm. Nhà thơ gặp và kết thân tình với Đỗ Phủ, Mạnh Hạo Nhiên, Sầm Tham, Cao Thích,... Những năm sau đó, ông gặp phải oan khuất khi làm việc dưới trướng Vĩnh Vương Lân và bị đi lưu đày. Đến gần cuối đời, ông được vua Đường Đại Tông mời về cung nhưng trên đường đi ông đã qua đời.
Đặc biệt, Lý Bạch là người thích đi đó đây, kết bạn khắp nơi. Do đó, ông gắn liền với một giai thoại khá nổi tiếng, đó là trong một lần đi chơi thuyền trên sông Thái Thạch (An Huy), trong cơn say, thấy ánh trăng lung linh dưới đáy nước, ông nhảy xuống ôm trăng mà chết.
Tổng hợp 46 bài thơ Đường hay nhất mọi thời đại30+ bài thơ ngũ ngôn đặc sắc nhất hiện nay2.2 Sự nghiệp sáng tác thơ ca của Lý Bạch - Một hồn thơ thong dong, tự tại
Nhà thơ Lý Bạch được xem là một trong những cây bút tài hoa trong nền văn học Trung Quốc. Khác với thơ ca của Đỗ Phủ luôn hướng về hiện thực, hồn thơ Lý Bạch thiên về chủ nghĩa lãng mạn, mang một nét gì đó rất riêng, có chút phóng túng, mơ mộng và hoài cổ, không thích động chạm đến thế thái nhân tình.
Lý Bạch được xem là một trong những cây bút tài hoa của nền văn học Trung QuốcTrên con đường sự nghiệp sáng tác văn chương của mình, Lý Bạch đã sáng tác hơn 20.000 bài thơ. Tuy nhiên, ông viết bài nào vứt bài đó nên thơ ông không còn nhiều, chỉ trên dưới 1.000 bài. Các bài thơ này được tổng hợp trong tập Hà Nhạc Anh Linh tập do Ân Phan chủ biên và Đường Thi Tam Bách Thủ do Tôn Thù biên soạn.
Ông là một hồn thơ theo chủ nghĩa lãng mạn kiệt xuất thời nhà Đường. Đề tài rất phong phú, đa dạng. Nội dung thơ xoay quanh tả cảnh thiên nhiên tươi đẹp, nói về tình cảm trai gái, bạn hữu đến sự cảm thông, thấu hiểu cho số phận của người chinh phụ và thú vui uống rượu đặc biệt của ông.
Một số bài thơ tiêu biểu của Lý Bạch về lối thơ Cổ Phong, tứ cú và bát cú như Một mình uống rượu dưới trăng, Nguyệt Hạ Độc Chước, Vọng Lư sơn bộc bố, Sắp mời rượu, Đối tửu,... Những bài thơ của ông được đánh giá cao và nổi tiếng trong dân gian như Hiệp khách hành, Hành lộ nan, Tương Tiến Tửu, Thanh Bình Điệu,...
3. Những kiệt tác đi cùng năm tháng, làm nên tên tuổi của Lý Bạch
Có thể nói, hồn thơ Lý Bạch khác với các ngòi bút đương thời. Xuyên suốt các tác phẩm của ông thường miêu tả cảnh đẹp thiên nhiên, cảnh say men rượu. Ông đã để lại cho đời một kho tàng thơ ca đồ sộ và quý báu. Nếu bạn yêu thích phong cách sáng tác phóng túng ấy, hãy thưởng thức những kiệt tác đi cùng năm tháng, làm nên tên tuổi của Lý Bạch dưới đây nhé!
3.1 Tĩnh Dạ Tứ
Phiên âm
Sàng tiền minh nguyệt quang
Nghi thị địa thượng sương
Cử đầu vọng minh nguyệt
Đê đầu tư cố hương.
Dịch nghĩa
Đầu giường ánh trăng chiếu rọi
Ngỡ là sương trên mặt đất
Ngẩng đầu ngắm trăng sáng
Cúi đầu nhớ quê cũ.
Dịch thơ
Đầu giường ánh trăng rọi,
Mặt đất như phủ sương.
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng,
Cúi đầu nhớ cố hương.
(Tác giả: Nam Trân dịch)
3.2 Thanh bình điệu kỳ 1
Phiên âm
Vân tưởng y thường, hoa tưởng dung,
Xuân phong phất hạm, lộ hoa nùng.
Nhược phi Quần Ngọc sơn đầu kiến,
Hội hướng Dao Đài nguyệt hạ phùng.
Dịch nghĩa
Nhìn mây nhớ đến xiêm áo, thấy hoa nhớ đến dung nhan,
Gió xuân thổi nhẹ qua hiên, sương hoa nồng nàn.
Nếu không phải người ở mé núi Quần Ngọc,
Thì cũng là thấy ở dưới trăng chốn Dao Đài.
Dịch thơ
Thoáng bóng mây hoa nhớ bóng hồng,
Gió xuân dìu dặt giọt sương trong.
Ví chăng non ngọc không nhìn thấy,
Dưới nguyệt Dao Đài thử ngóng trông.
(Tác giả: Ngô Tất Tố dịch)
Tổng hợp 35+ bài thơ về thiên nhiên bến đỗ bình yên cho tâm hồnNhững bài thơ hay về biển đong đầy nhiều cảm xúc
3.3 Quân hành
Phiên âm
Lưu mã tân khoa bạch ngọc an,
Chiến bãi sa trường nguyệt sắc hàn.
Thành đầu thiết cổ thanh do chấn,
Hạp lý kim đao huyết vị can.
Dịch nghĩa
Ngựa hoa lưu mới cưỡi, yên cẩn ngọc trắng,
Sa trường sau cuộc chiến mặt trăng sắc lạnh lẽo.
Ở đầu thành tiếng trống sắt như còn vang động,
Đao mạ vàng trong bao còn chưa khô máu quân thù.
Dịch thơ
Ngựa mới cưỡi, yên viền ngọc trắng
Giao tranh xong trăng lạnh lùng soi
Đầu thành trống động chưa nguôi
Đao vàng trong vỏ còn tươi máu thù.
(Tác giả: Nguyễn Minh dịch)
3.4 Đối tửu
Phiên âm
Bồ đào tửu,
Kim phả la,
Ngô cơ thập ngũ tế mã đà.
Thanh đại hoạ mi hồng cẩm ngoa,
Đạo tự bất chính kiều xướng ca.
Đại mội diên trung hoài lý tuý,
Phù dung trướng để nại quân hà."
Dịch nghĩa
Rượu nho uống với chén vàng
Gái Ngô ngựa nhỏ tuổi chừng mười lăm
Mày xanh giày ủng gấm hồng
Giọng tuy chưa chuẩn thanh âm nhẹ nhàng
Tiệc đang dở bỗng say ngang
Trướng hoa bất tỉnh cô nàng cười chăng?
Dịch thơ
Bồ đào rượu với chén vàng,
Cô Ngô cỡi ngựa tuổi nàng mười lăm.
Gấm hồng giày ủng mày xanh,
Nói tuy chưa chuẩn âm thanh nhẹ nhàng.
Tiệc dang dở bỗng say tràn,
Phù dung bên trướng với chàng làm sao?
(Tác giả: Lương Trọng Nhàn)
3.5 Anh Vũ Châu
Phiên âm
Anh vũ lai quá Ngô giang thuỷ,
Giang thượng châu truyền Anh Vũ danh.
Anh vũ tây phi Lũng sơn khứ,
Phương châu chi thụ hà thanh thanh.
Yên khai lan diệp hương phong khởi,
Ngạn giáp đào hoa cẩm lãng sinh.
Thiên khách thử thời đồ cực mục,
Trường châu cô nguyệt hướng thuỳ minh?
Dịch nghĩa
Chim anh vũ xưa bay đến sông Ngô
Bãi trên sông mới truyền lại tên Anh Vũ
Chim anh vũ đã bay về Tây qua núi Lũng
Bãi thơm cây xanh biếc làm sao!
Khói toả ra từ lá cây lan làm gió thơm nổi dậy
Bờ liền với hoa đào, sóng gấm sinh
Lúc ấy người đi đày trông hoài cõi xa
Trên bãi dài mảnh trăng cô đơn còn soi sáng cho ai.
Dịch thơ
Sóng Ngô anh vũ xưa qua đó
Anh Vũ thành tên gọi đến giờ
Anh vũ về tây qua núi Lũng
Bãi thơm cây cối những xanh mờ
Mùi hương lan diệp lừng trong khói
Sóng gấm đào hoa gợn sát bờ
Thiên khách trông vời thôi cũng uổng
Dọi ai trăng bãi luống bơ vơ!
(Tác giả: Lê Nguyễn Lưu dịch)
3.6 Nguyệt hạ độc chước kỳ 1
Phiên âm
Uống rượu một mình
Hoa gian nhất hồ tửu,
Độc chước vô tương thân.
Cử bôi yêu minh nguyệt,
Đối ảnh thành tam nhân.
Nguyệt ký bất giải ẩm,
Ảnh đồ tùy ngã thân.
Tạm bạn nguyệt tương ảnh,
Hành lạc tu cập xuân.
Ngã ca nguyệt bồi hồi,
Ngã vũ ảnh linh loạn.
Tỉnh thì đồng giao hoan,
Tuý hậu các phân tán.
Vĩnh kết vô tình du,
Tương kỳ mạc Vân Hán.
Dịch nghĩa
Trong đám hoa với một bình rượu
Uống một mình không có ai làm bạn
Nâng ly mời với trăng sáng
Cùng với bóng nữa là thành ba người
Trăng đã không biết uống rượu
Bóng chỉ biết đi theo mình
Tạm làm bạn với trăng và bóng
Hưởng niềm vui cho kịp với ngày xuân
Ta hát trăng có vẻ bồi hồi không muốn đi
Ta múa bóng có vẻ quay cuồng mê loạn
Lúc tỉnh cùng nhau vui đùa
Sau khi say thì phân tán mỗi một nơi
Vĩnh viễn kết chặt mối giao du vô tình này
Cùng nhau ước hẹn lên trên Thiên hà gặp lại.
Dịch thơ
Có rượu không có bạn,
Một mình chuốc dưới hoa.
Cất chén mời trăng sáng,
Mình với bóng là ba.
Trăng đã không biết uống,
Bóng chỉ quấn theo ta.
Tạm cùng trăng với bóng,
Chơi xuân cho kịp mà!
Ta hát, trăng bồi hồi,
Ta múa, bóng rối loạn.
Lúc tỉnh cùng nhau vui,
Say rồi đều phân tán.
Gắn bó cuộc vong tình,
Hẹn nhau tít Vân Hán.
(Tác giả: Nam Trân dịch)
Đồng cảm và sẻ chia với những bài thơ buồnNhững câu nói hay về cô đơn làm xao xuyến bao người
3.7 Thục đạo nan
Phiên âm
Nguy hồ cao tai
Thục đạo chi nan, nan ư thướng thanh thiên
Tàm Tùng cập Ngư Phù
Khai quốc hà mang nhiên
Nhĩ lai tứ vạn bát thiên tuế
Bất dữ Tần tái thông nhân yên
Tây đương Thái Bạch hữu điểu đạo
Khả dĩ hoành tuyệt Nga My điên
Địa băng sơn tồi tráng sĩ tử
Nhiên hậu thiên thê thạch sạn phương câu liên
Thượng hữu lục long hồi nhật chi cao tiêu
Hạ hữu xung ba nghịch chiết chi hồi xuyên
Hoàng hạc chi phi thượng bất đắc quá
Viên nhứu dục độ sầu phan viên
Thanh Nê hà bàn bàn
Bách bộ cửu chiết oanh nham loan
Môn Sâm lịch Tỉnh ngưỡng hiếp tức
Dĩ thủ phủ ưng toạ trường thán
Vấn quân tây du hà thời hoàn
Uý đồ sàm nham bất khả phan
Đãn kiến bi điểu hào cổ mộc
Hùng phi tòng thư nhiễu lâm gian
Hữu văn tử quy đề dạ nguyệt, sầu không san.
Thục đạo chi nan nan ư thướng thanh thiên
Sử nhân thính thử điêu chu nhan
Liên phong khứ thiên bất doanh xích
Khô tùng đảo quái ỷ tuyệt bích
Phi suyền bộc lưu tranh huyên hôi
Phanh nhai chuyển thạch vạn hác lôi
Kỳ hiểm dã nhược thử
Ta nhĩ viễn đạo chi nhân
Hồ vi hồ lai tai
Kiếm Các tranh vanh nhi thôi ngôi
Nhất phu đang quan
Vạn phu mạc khai
Sở thủ hoặc phi thân
Hoá vi lang dữ sài
Triều tị mãnh hổ
Tịch tỵ trường xà
Ma nha doãn huyết
Sát nhân như ma
Cẩm thành tuy vân lạc
Bất như tảo hoàn gia
Thục đạo chi nan nan ư hướng thanh thiên
Trắc thân tây vọng trường tư ta
Dịch nghĩa
Ôi,
Nguy hiểm thay, cao thay!
Đường Thục khó, khó hơn lên trời xanh.
Các vua Tàm Tùng và Ngư Phù
Ở chốn xa xôi biết bao!
Từ đó đến nay, đã bốn vạn tám nghìn năm,
Mới thông suốt với chỗ có khói người ở ải Tần.
Phía tây là núi Thái Bạch có đường chim bay,
Có thể vắt ngang đến tận đỉnh núi Nga Mi.
Đất lở, núi sập, tráng sĩ chết,
Rồi mới có thang trời, đường đá móc nối liền nhau.
Phía trên có ngọn cao sáu rồng lượn quanh mặt trời.
Phía dưới có dòng sông uốn khúc sóng xô rẽ ngược.
Hạc vàng còn không bay qua được;
Vượn khỉ muốn vượt qua, cũng buồn khi vin tới, leo trèo.
Xem thêm: Ứng Dụng My Vnpost Vietnam Post: Giao Hàng Vnpost Nhanh Là Gì
Rặng núi Thanh Nê khuất khúc biết bao!
Cứ trăm bước lại có chín khúc quặt vòng quanh núi non hiểm trở.
Đứng trên cao, tưởng chứng như mó được sao Sâm, lướt qua sao Tỉnh ngẩng trông nín thở,
Lý Bạch là nhà thơ nổi tiếng trong nền văn học Trung Quốc đương thời. Không giống với Đỗ Phủ, hồn thơ Lý Bạch thích phóng túng, viễn vông, không muốn động chạm đến thế thái nhân tình mà thường mang tính hoài cổ.Kho thơ văn đồ sộ với hơn 20.000 bài là tài sản quý giá mà ông để lại cho đời. Chùm thơ hay nhất của Lý Bạch mà vabishonglam.edu.vn sưu tầm dưới đây hy vọng bạn sẽ yêu thích.
1. Đôi dòng tiểu sử cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Lý Bạch
Tiểu sử nhà thơ Lý Bạch

Phác họa chân dung nhà thơ Lý Bạch
Ông sống và làm việc chủ yếu ở Thành phố Trường Giang, nước Trung Quốc. Ông sinh thuộc cung Song Ngư, cầm tinh con (giáp) trâu (Tân Sửu 701). Lý Bạch xếp hạng nổi tiếng thứ 31130 trên thế giới và thứ 84 trong danh sách Nhà thơ nổi tiếng.
Lý Bạch là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất thời đường tại Trung Hoa. Ông được hậu thế gọi là "Thi tiên" (tức là thơ tiên), là một Thi tiên vĩ đại của đất nước Trung Quốc. Ông còn có bút hiệu khác là Thái Bạch, Tràng Canh,Thanh Liên cư sĩ. Ông còn được gọi là Tửu trung tiên, Lý Trích Tiên.
Năm 15 tuổi, nhà thơ Lý Bạch viết bài phú ngạo khá nổi tiếng, có tên "Tư Mã Tương Như" để gửi cho Hàn Kinh Châu.
Năm 16 tuổi, cái tên Lý Bạch đã nổi tiếng khắp vùng Tứ Xuyên. Nhưng vì chán trần gian nên nhà thơ Lý Bạch đã bỏ lên núi Đái Thiên Sơn học đạo, bắt đầu cuộc đời ẩn sĩ.
Sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Lý Bạch
Trong sự nghiệp văn chương, nhà thơ Lý Bạch đã sáng tác hơn 20.000 bài thơ, nhưng làm bài nào vứt bài đó, nên được biết tới là nhờ dân gian ghi chép hơn cả.

Sự nghiệp nhà thơ Lý Bạch
Đến nay thì thơ Lý Bạch còn trên dưới 1000 bài, bài nào cũng được đánh giá rất cao, nhưng nổi tiếng trong dân gian thì có: Tương Tiến Tửu, Hiệp khách hành, Thanh Bình Điệu, Hành lộ nan...
Trong thơ Lý Bạch thích viển vông, phóng túng, ít đụng chạm đến thế sự mà thường vấn vương hoài cổ.
Đề tài trong thơ ông cũng khá đa dạng: tả cảnh thiên nhiên tươi đẹp, cảm thông cho người chinh phụ, viết về tình bạn hữu, tình trai gái, quê hương. Và nhiều nhất vẫn là về rượu.
Lý Bạch làm thơ lối Cổ Phong rất được yêu thích, ngoài ra còn có thơ tứ cú, bát cú. Những bài thơ tiêu biểu như:
Nguyệt Hạ Độc ChướcMột mình uống rượu dưới trăng
Vọng Lư sơn bộc bố
Xa ngắm thác núi Lư
Hành lộ nan
Đường đi khó
Sắp mời rượu
Thanh bình điệu kỳ 1Bài ca người hiệp khách ( Sau này, được Kim Dung dựng thành phim) ...
2. Tập thơ Lý Bạch hay nhất - những kiệt tác đi cùng năm tháng
Sau đây, vabishonglam.edu.vn xin giới thiệu cùng quý bạn đọc tập thơ Lý Bạch hay nhất. Đây đều là những kiệt tác để đời, được nhiều độc giả yêu thích.
Bài 1: Thơ Lý Bạch về quê hương - Tĩnh dạ tư

Tĩnh dạ tư
Ngắm trăng nhớ cố hương
Sàng tiền minh nguyệt quang
Nghi thị địa thượng sương
Cử đầu vọng minh nguyệt
Đê đầu tư cố hương.
Dịch nghĩa:
Đầu giường ánh trăng chiếu rọi
Ngỡ là sương trên mặt đất
Ngẩng đầu ngắm trăng sáng
Cúi đầu nhớ quê cũ.
Dịch thơ
Ánh trăng chiếu sáng đầu giường
Ngỡ là mặt đất phủ sương móc dày
Ngẩng đầu ngắm ánh trăng đầy
Cúi đầu bỗng nhớ những ngày cố hương
Bài thơ ngắn chỉ gói gọn trong 20 chữ với nguồn cảm hứng chủ đạo là nỗi buồn, nỗi nhớ da diết của Lý Bạch.
Trong cái không gian tĩnh lặng ấy, bốn bề vắng lặng, không một tiếng côn trùng kêu, không có một tiếng gió thổi, không một tiếng chuông chùa ngân, nhà thơ bất chợt thấy ánh trăng rọi đầu giường.
Cái không gian trăng ấy cùng với nỗi nhớ cố hương hòa quyện với nhau tạo thành một sự liên tưởng cảm động, chấp cánh cho hồn thơ bay bổng. Nhà thơ đã rất tinh tế khi lấy hình ảnh ánh trăng để thể hiện tâm trạng nhớ quê nhà của mình.
Bài 2: Nguyệt dạ giang hành ký Thôi viên ngoại Tông Chi
Phiêu phiêu giang phong khởi
Tiêu táp hải thụ thu
Đăng lô mỹ thanh dạ
Quải tịch di khinh chu
Nguyệt tùy bích sơn chuyển
Thủy hợp thanh thiên lưu
Diểu như tinh hà thượng
Đán giác vân lâm u
Quy lộ phương hạo hạo
Tồ xuyên khứ du du
Đồ bi huệ thảo yết
Phúc thính lăng ca sầu
Ngạn khúc mê hậu phố
Sa minh hám tiền châu
Hoài quân bất khả kiến
Lưu viễn tăng ly ưu.
Bài 3: Thơ Lý Bạch về rượu - Nguyệt hạ độc chước kỳ 1
Uống rượu một mình
Hoa gian nhất hồ tửu,
Độc chước vô tương thân.
Cử bôi yêu minh nguyệt,
Đối ảnh thành tam nhân.
Nguyệt ký bất giải ẩm,
Ảnh đồ tùy ngã thân.
Tạm bạn nguyệt tương ảnh,
Hành lạc tu cập xuân.
Ngã ca nguyệt bồi hồi,
Ngã vũ ảnh linh loạn.
Tỉnh thì đồng giao hoan,
Tuý hậu các phân tán.
Vĩnh kết vô tình du,
Tương kỳ mạc Vân Hán.
Dịch nghĩa
Trong đám hoa với một bình rượu
Uống một mình không có ai làm bạn
Nâng ly mời với trăng sáng
Cùng với bóng nữa là thành ba người
Trăng đã không biết uống rượu
Bóng chỉ biết đi theo mình
Tạm làm bạn với trăng và bóng
Hưởng niềm vui cho kịp với ngày xuân
Ta hát trăng có vẻ bồi hồi không muốn đi
Ta múa bóng có vẻ quay cuồng mê loạn
Lúc tỉnh cùng nhau vui đùa
Sau khi say thì phân tán mỗi một nơi
Vĩnh viễn kết chặt mối giao du vô tình này
Cùng nhau ước hẹn lên trên Thiên hà gặp lại.
Bài 4: Thơ Lý Bạch về thiên nhiên - Bạch đầu ngâm
Cẩm thuỷ đông bắc lưu,
Ba đãng song uyên ương.
Hùng sào Hán cung thụ,
Thư lộng Tần thảo phương.
Ninh đồng vạn tử toái ỷ dực,
Bất nhẫn vân gian lưỡng phân trương.
Thử thì A Kiều chính kiều đố,
Độc toạ Trường Môn sầu nhật mộ.
Đãn nguyện quân ân cố thiếp thâm,
Khởi tích hoàng kim mãi từ phú.
Tương Như tác phú đắc hoàng kim,
Trượng phu hiếu tân đa dị tâm.
Nhất triêu tương sính Mậu Lăng nữ,
Văn Quân nhân tặng “Bạch đầu ngâm”.
Đông lưu bất tác tây quy thuỷ,
Lạc hoa từ điều tu cố lâm.
Thố ty cố vô tình,
Tuỳ phong nhiệm khuynh đảo.
Thuỳ sử nữ la chi,
Nhi lai cưỡng oanh bão.
Lưỡng thảo do nhất tâm,
Nhân tâm bất như thảo.
Mạc quyển long tu tịch,
Tòng tha sinh võng ty.
Thả lưu hổ phách chẩm,
Hoặc hữu mộng lai thì.
Phúc thuỷ tái thu khởi mãn bôi,
Khí thiếp dĩ khứ nan trùng hồi.
Cổ lai đắc ý bất tương phụ,
Chỉ kim duy kiến Thanh Lăng đài.
Dịch nghĩa
Dòng nước như gấm trôi về đông bắc
Trên sóng chấp chới đôi uyên ương
Con trống đậu trên cây ở Hán cung
Con mái đùa trong cỏ thơm đất Tần
Thà cùng nhau chết vạn lần, nát lông cánh
Chứ không chịu chia lìa nhau trong mây
Khi A Kiều trong cơn ghen thủa ấy
Ngồi một mình buồn ngày tàn ở Trường Môn
Chỉ mong ơn vua thương tới nàng hơn
Há tiếc hoàng kim mua từ phú
Tương Như làm phú được hoàng kim
Trượng phu ưa mới sinh lòng khác
Một sớm muốn cưới cô gái Mậu Lăng
Văn Quân nhân tặng “Bạch đầu ngâm”
Nước đã về đông chẳng quay lại hướng tây
Hoa lìa cành thẹn với rừng cũ
Cỏ thố ty vốn vô tình
Theo gió mà ngả nghiêng
Ai xui khiến dây cỏ nữ la
Tìm tới quấn quýt không rời
Hai loài cỏ, chung một tấm lòng
Lòng người sao chẳng như cỏ ấy
Đừng cuốn chiếc chiếu long tu (râu rồng)
Mặc cho tơ nhện chăng đầy
Hãy để lại chiếc gối hổ phách
Biết đâu sẽ có lúc về trong giấc mơ
Nước đổ đi rồi, há thu lại đầy chén sao
Chàng khinh bạc bỏ thiếp đi, khó mà quay lại
Xưa nay khi đắc ý, không ruồng rẫy nhau
Giờ chỉ còn thấy đài Thanh Lăng mà thôi
Trăng và rượu là hai hình ảnh xuất hiện nhiều trong thơ Lý Bạch. Bộ 3: trăng, thơ, rượu luôn được xem là người bạn tri kỷ của nhà thơ này. Bài thơ thể hiện rất rõ mối tình thân thiết ấy, là chủ đề giúp hồn thơ Lý Bạch cất cánh phiêu du.

Thơ-trăng-rượu là những người bạn tri kỉ của nhà thơ
Bài 5: Thơ Lý Bạch về rượu - Tương Tiến Tửu
Quân bất kiến:Hoàng Hà chi thuỷ thiên thượng lai,Bôn lưu đáo hải bất phục hồi!Hựu bất kiến:Cao đường minh kính bi bạch phát,Triêu như thanh ty mộ thành tuyết.Nhân sinh đắc ý tu tận hoan,Mạc sử kim tôn không đối nguyệt!Thiên sinh ngã tài tất hữu dụng,Thiên kim tán tận hoàn phục lai.Phanh dương tể ngưu thả vi lạc,Hội tu nhất ẩm tam bách bôi.Sầm phu tử,Đan Khâu sinh.Thương tiến tửu,Bôi mạc đình!Dữ quân ca nhất khúc,Thỉnh quân vị ngã khuynh nhĩ thính:“Chung cổ soạn ngọc bất túc quý,Đãn nguyện trường tuý bất nguyện tỉnh!Cổ lai thánh hiền giai tịch mịch,Duy hữu ẩm giả lưu kỳ danh.Trần vương tích thời yến Bình Lạc,Đẩu tửu thập thiên tứ hoan hước”.Chủ nhân hà vi ngôn thiểu tiền,Kính tu cô thủ đối quân chước.Ngũ hoa mã,Thiên kim cừu,Hô nhi tương xuất hoán mỹ tửu,Dữ nhĩ đồng tiêu vạn cổ sầu.
Dịch thơ ( Ngô Tất Tố)
Con sông Hoàng lưng trời tuôn nước,Xuống biển rồi, có ngược lên đâu!Nhà cao, gương xót mái đầu,Sớm còn tơ biếc, tối hầu tuyết pha.Vui cho đẫy, khi ta đắc ýDưới vầng trăng, đừng để chén không.Sinh ra, trời có chỗ dùng,Nghìn vàng tiêu hết, lại trông thấy về.Chén đi đã, trâu dê cứ giết,Ba trăm ly, phải hết một lần.Khâu, Sầm hai bác bạn thân,Rượu kèo xin chớ ngại ngùng ngừng thôi!Ta vì bác, hát chơi một khúc!Bác vì ta, hãy chúc bên tai:“Ngọc, tiền, chuông, trống mặc ai,Tỉnh chi? Chỉ muốn cho dài cuộc say.Bao hiền thánh đến nay đã rõ?
Phường rượu ta tên họ rành rành:Trần Vương bữa tiệc quán Bình,Mười nghìn đấu rượu thỏa tình đùa vui”.Chủ nhân chớ ngậm ngùi tiền ít,Mua rượu ta chén tít cùng nhau.Áo cừu, ngựa gấm, để đâu?
Gọi con đem đổi vài bầu rượu ngon.Uống cho muôn thuở tan buồn!
Bài 6: Thơ Lý Bạch về rượu - Bả tửu vấn nguyệt
Rượu và trăng
Thanh thiên hữu nguyệt lai kỷ thì,
Ngã kim đình bôi nhất vấn chi!
Nhân phan minh nguyệt bất khả đắc,
Nguyệt hành khước dữ nhân tương tuỳ.
Kiểu như phi kính lâm đan khuyết,
Lục yên diệt tận thanh huy phát
Đãn kiến tiêu tòng hải thượng lai,
Ninh tri hiểu hướng vân gian một.
Bạch thố đảo dược thu phục xuân,
Thường nga cô thê dữ thuỳ lân.
Kim nhân bất kiến cổ thì nguyệt,
Kim nguyệt tằng kinh chiếu cổ nhân.
Cổ nhân kim nhân nhược lưu thuỷ,
Cộng khan minh nguyệt giai như thử.
Duy nguyện đương ca đối tửu thì,
Nguyệt quang thường chiếu kim tôn lý.
Dịch nghĩa
Trời xanh có vầng trăng đã bao lâu rồi?
Nay ta ngừng chén hỏi trăng đây!
Người thường không thể vin với được vầng trăng sáng,
Trăng đi đâu thì vẫn cứ theo người.
Ánh sáng trắng như gương vút tận cửa son,
Khói biếc tan đi hết, để lộ vẻ trong trẻo lan tỏa ra.
Chỉ thấy ban đêm trăng từ biển tới,
Nào hay sớm lại tan biến giữa trời mây.
Thỏ trắng giã thuốc mãi thu rồi lại xuân,
Thường Nga lẻ loi cùng ai bầu bạn?
Người ngày nay không thấy bóng trăng xưa.
Trăng nay thì đã từng soi người xưa.
Người xưa nay tựa như giòng nước chảy,
Cùng ngắm vầng trăng sáng như vậy đó.
Chỉ mong trong lúc ca say trước cuộc rượu,
Ánh trăng cứ mãi sáng soi vào chén vàng.
Bài 7: Xuân Nhật Túy Khởi Ngôn Chí
Xử thế nhược đại mộng
Hồ vi lao kỳ sinh?
Sở dĩ chung nhật túy
Đồi nhiên ngọa tiền doanh
Giác lai miện đình tiền
Nhất điểu hoa gian minh
Tá vấn thử hà nhật?
Xuân phong ngữ lưu oanh
Cảm chi dục thán tức
Đối chi hoàn tự khuynh
Hạo ca đãi minh nguyệt
Khúc tận dĩ vong tình.
Tạm dịch (Ngô Tất Tố dịch)
Ở đời như giấc chiêm bao
Làm chi mà phải lao đao cho đời?
Vậy nên say suốt hôm mai
Bên cây cột trước, nằm dài khểnh chân
Tỉnh rồi, chợt ngó trước sân
Tiếng chim đâu đã nghe gần trong hoa
Ngày chi? Thử hỏi cho ra
Gió xuân đang giục oanh già véo von
Cảm thương, lòng những bồn chồn
Đoái trông cảnh vật dốc luôn chén quỳnh
Hát ngao chờ bóng trăng thanh
Lời ca vừa hết, mối tình đã quên.
Bài 8: Thơ Lý Bạch về mỹ nhân - Thanh bình điệu kỳ 1
Dương Quý Phi trong thơ Lý Bạch
Vân tưởng y thường, hoa tưởng dung,
Xuân phong phất hạm, lộ hoa nùng.
Nhược phi Quần Ngọc sơn đầu kiến,
Hội hướng Dao Đài nguyệt hạ phùng.
Dịch nghĩa
Nhìn mây nhớ đến xiêm áo, thấy hoa nhớ đến dung nhan,
Gió xuân thổi nhẹ qua hiên, sương hoa nồng nàn.
Nếu không phải người ở mé núi Quần Ngọc,
Thì cũng là thấy ở dưới trăng chốn Dao Đài.
Đây là bài thơ hay viết về Dương Quý Phi, người phụ nữ đẹp sắc nước hương trời được sự sủng ái của Đường Minh Hoàng Lý Long Cơ. Vẻ đẹp của người đàn bà này đã trở thành đề tài trong thơ văn Lý Bạch